Tên đầy đủ |
Chu An (tên chữ Hán: 朱文安) |
Tên hiệu |
Tiều Ẩn |
Tên chữ |
Linh Triệt |
Năm sinh và năm mất |
1292 - 1370 |
Quốc tịch |
Đại Việt |
Nơi sinh |
Làng Văn Thôn, Quang Liệt, huyện Thanh Đàm. Ngày nay, nơi sinh của ông thuộc xóm Văn, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội. |
Nơi mất |
Mất tại núi Phượng Hoàng. Ông được được an táng tại đền thờ Chu Văn An, núi Phượng Hoàng, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương. |
Nổi tiếng với |
Danh nhân văn hóa thế giới do UNESCO công nhận, vạn thế sư biểu (người thầy muôn đời) của Việt Nam. Ông đã từng giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám, dạy vua Trần Hiến Tông, mở trường học dân lập để phổ biến nho giáo. Ngoài ra, ông dâng “Thất trảm sớ” xin vua chém đầu 7 tên gian thần. |
Học trò nổi tiếng |
Lê Quát (Trạng Quét), Phạm Sư Mạnh. |
Gia đình |
Cha mẹ |
Chu Văn Thiện (cha), Nguyễn Thị Chiêm (mẹ). |
Hồ sơ Media |
Hồ sơ Wikipedia |
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chu_Văn_An |
Tiểu sử Chu Văn An
Chu Văn An là người thầy vĩ đại đã có công phổ biến giáo dục ở nước ta. Ông đã sáng lập trường học tư thục đầu tiên tại Việt Nam. Cả cuộc đời của Chu Văn An gắn liền với công tác giáo dục. Lời dạy vĩ đại của thầy Chu Văn An là về sự hy sinh không màng danh lợi cho đất nước và sự nghiệp "trồng người".
Ông luôn giữ vững quan điểm dạy học không phân sang hèn, học luôn phải đi đôi với hành. Ông đã dày công biên soạn cuốn giáo trình đầu tiên của Việt Nam để phục vụ việc dạy học.
Ngôi trường tư thục đầu tiên mà ông sáng lập đã đào tạo nên vô số nhân tài cho đất nước, nhiều học trò giữ chức quan lớn trong triều. Trong số đó, Lê Quát và Phạm Sư Mạnh là hai người học trò nổi tiếng nhất. Thầy giáo Chu Văn An sở hữu cá tính độc đáo, thẳng thắn, cao thượng và rất được học trò yêu mến.
Dưới triều vua Trần Minh Tông, Chu Văn An thi đỗ Thái học sinh (tiến sĩ). Thế nhưng, ông không ra làm quan mà lại mở trường học Huỳnh Cung ở quê nhà. Sau đó, ông đã được vua mời đảm nhiệm chức tư nghiệp Quốc Tử Giám và dạy học cho thái tử Vượng (Trần Hiến Tông).
Triều đại nhà Trần dần suy yếu, tham quan nịnh thần ngày càng lộng hành. Chu Văn An dâng “thất trảm sớ” lên vua Trần Dụ Tông xin chém đầu 7 tên gian thần nhằm giữ nghiêm kỷ cương triều chính. Tuy nhiên, vua Trần Dụ Tông đã không chấp nhận tấu sớ của ông.
Thầy Chu cáo quan về núi Phượng Hoàng (TP.Chí Linh, tỉnh Hải Dương) tiếp tục dạy học, viết sách và nghiên cứu y học. Ông đã để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng như Tiều Ẩn Quốc ngữ thi tập, Tiều ẩn thi tập,...
Sau khi mất, ông được vua phong tước Văn Trinh Công và được thờ tại văn miếu Quốc Tử Giám bên cạnh các bậc thánh hiền.
Với những đóng góp to lớn cho nền giáo nước nhà, Chu Văn An được vinh danh là “vạn thế sư biểu” mang ý nghĩa “người thầy của muôn đời”. Ngày 16 tháng 4 năm 2019, Chu Văn An được Unesco công nhận là danh nhân văn hóa thế giới.
Thân thế và gia đình
Chu Văn An được sinh ra ở làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm. Hiện nay, quê của ông thuộc xóm Văn, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.
Thanh Trì là vùng đồng bằng sông nước thuộc vùng châu thổ sông Hồng, nổi tiếng với dấu tích đồn lũy Bố Cái Đại Vương.
Theo thần tích được ghi chép tại Thanh Liệt, Chu Văn An sinh năm 1292, mất năm 1370. Từ đời ông trở về sau, dòng họ Chu đã không lập phả hệ. Theo sử sách ghi lại, Chu Đình Bảo đỗ đồng tiến sĩ khoa giáp thìn (1484), làm quan đời Lê Thánh Tông. Theo sách “Chu Văn An - Người thầy của muôn đời”, Chu Đình Bảo thuộc dòng họ của ông.
Ngày nay, họ Chu ở Thanh Liệt đã còn rất ít, phần lớn đã phải chuyển sang họ khác.
Sự nghiệp
Sự nghiệp của Chu Văn An được chia thành 3 giai đoạn như sau:
Mở trường dạy học Huỳnh Cung
Lúc này, trường học ở nước ta rất hiếm và dân chúng phần lớn phải chịu cảnh thất học. Cả nước chỉ có 4 ngôi trường nhưng đều không nhận học sinh bình dân.
Trường Quốc Tử Giám chỉ dành cho hoàng thất, con quan lại theo học. Trường Tư Thiện Đường, Toát Trai Đường cũng chỉ dành cho con cháu quan lại. Ngoài ra, còn có ngôi trường dành riêng các nhà sư là trường Yên Tử.
Chu Văn An là người cương trực, không màng danh lợi. Ông đỗ đạt Thái học sinh (tương đương tiến sĩ ngày nay). Ông không làm quan mà về quê nhà, mở trường tư thục Huỳnh Cung, thu nhận tất cả các học sinh hiếu học không phân biệt sang hèn.
Dưới triều đại nhà Trần, trường Huỳnh Cung đã tạo nên ảnh hưởng to lớn. Trường Huỳnh Cung được miêu tả có đầy đủ thư viện, lớp học, học sinh trên 3000 (Theo sách “Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Thiếp - ba bậc thầy của giáo dục Việt Nam”)
Ngôi trường này đã giúp cho con em dân thường có cơ hội được học hành và thi cử. Tại trường Huỳnh Cung, thầy Chu đã cho phổ cập rộng rãi nho giáo với tôn chỉ “giáo kính, giáo trung, giáo văn”.
Ngôi trường có 2 học sinh xuất thân bình dân đỗ đạt Thái Học Sinh là Lê Quát, Phạm Sư Mạnh, gây nên chấn động cho giới tri thức lúc bấy giờ.
Hiệu trưởng trường Quốc Tử Giám
Sau khi trường Huỳnh Cung nổi tiếng, danh tiếng của Chu Văn An lan truyền đến tận kinh đô Thăng Long.
Ông được vua Trần Minh Tông mời về để đảm nhiệm Tư nghiệp Quốc Tử Giám và quản lý công tác giáo dục trên cả nước.
Lúc đầu, ông chủ yếu tập trung vào công việc giảng dạy cho thái tử Vượng (Trần Hiến Tông). Khi Trần Hiến Tông lên ngôi, ông tập trung vào công việc phát triển Quốc Tử Giám.
Thầy Chu Văn An và Lê Quát, Phạm Sư Mạnh, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn đã cố gắng tham gia củng cố triều chính khi nhà Trần đang dần suy thoái.
Dâng thất trảm sớ và lui về ở ẩn
Năm 1341, vua Trần Hiến Tông qua đời, Trần Dụ Tông được lập làm vua. Ban đầu, Trần Dụ Tông còn nhỏ nên Thái Thượng Hoàng Trần Minh Tông chủ yếu quản lý triều đình.
Sau khi vua Trần Minh Tông mất,
Trần Dụ Tông không còn chăm lo việc nước như trước. Vua lại đam mê cờ bạc, tửu sắc. Bấy giờ, quan lại tham nhũng, lộng quyền, chia bè kết phái, vận nước suy yếu. Những quan viên ngự sử vốn phải can ngăn vua nay lại im lặng.
Chu Văn An không thể làm ngơ trước tình cảnh đó. Ông đã dâng vua “Thất trảm sớ” xin chém đầu 7 tên gian thần nhằm giữ gìn kỷ cương triều đình. Tuy nhiên, vua Trần Dụ Tông chỉ im lặng, không hồi âm.
Vì vậy, ông đã treo mũ quan tại cửa Huyền Vũ rồi lui về ở ẩn tại Chí Linh, núi Phượng Hoàng (nay thuộc thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương).
Hình ảnh - Tượng thờ Chu Văn An
Khi lui về ở ẩn, ông vẫn tiếp tục công việc dạy học, viết sách. Những lúc rảnh rỗi, ông còn trồng thêm các cây thuốc quý và nghiên cứu y học. Nhiều học trò của Chu Văn An đã làm quan lớn vẫn đến thăm thầy.
Khi vua Trần Nghệ Tông lên ngôi, ông đã chống gậy về kinh để chúc mừng. Vua có ý mời ông trở lại làm quan nhưng ông từ chối khéo.
Năm 1370, Chu Văn An qua đời tại núi Phượng Hoàng. Vua Trần Nghệ Tông nghe tin đã truy phong cho ông tước hiệu “Văn Trinh” và thờ tại văn miếu Quốc Tử Giám. Nhà văn Ngô Thế Vinh đã giải nghĩa 2 chữ “Văn Trinh” như sau: “ Văn, đức chi biểu giã. Trinh, đức chi chính cổ dã.” Chữ “Văn” là thể hiện thuần nhất bên ngoài của đức độ, trinh là sự biểu hiện cho sự chính trực.
Những thành tựu của nhà giáo Chu Văn An
Chu Văn An dù đỗ đạt cao nhưng vẫn mở trường dạy học mà không ra làm quan. Ông chủ trương đào tạo học sinh không phân biệt giàu nghèo, xuất thân. Ngôi trường Huỳnh Cung là nơi đã đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước.
Nhờ đó, thầy Chu đã góp phần phổ cập giáo dục đến mọi tầng lớp trong xã hội. Thầy Chu sinh ra trong thời điểm mà Phật giáo ảnh hưởng sâu rộng đến mọi tầng lớp. Ông không hẳn bài trừ Phật giáo mà lên án mạnh mẽ những tệ nạn phát sinh như mê tín dị đoan, lười lao động.
Ông đã biên tập bộ giáo trình Tứ Thư Thuyết ước, chắt lọc từ các bộ sách Nho giáo kinh điển gồm: Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh Tử.
Tuy nhiên, ông không chỉ giáo dục lý thuyết suông mà còn chú trọng việc học đi đôi với hành.
Sách là nguồn tư liệu quý giá và có thể lưu giữ kiến thức. Vì vậy, Chu Văn An đã biên soạn khá nhiều sách. Ông đã biên soạn cuốn sách “Y thư lược giải” ghi chép lại công dụng chữa bệnh của một số loại cây đông y. Những tác phẩm của ông thể hiện rõ các quan điểm giáo dục còn mãi giá trị như sau:
- Cùng lý: tìm hiểu rõ ràng sự vật, hiện tượng.
- Chính tâm: luôn thể hiện tâm hồn trong sạch, chính trực, kiên quyết bài trừ thói hư tật xấu.
- Tịch tà: chống lại tà thuyết vô căn cứ và mê tín dị đoan.
- Cự bí: đấu tranh với mọi điều xấu ảnh hưởng đến tư tưởng.
- Đến nay, những quan điểm giáo dục của Chu Văn An vẫn còn nguyên giá trị.
Giai thoại Chu Văn An và người học trò thủy thần
Khi Chu Văn An mở trường dạy học tại quê nhà, có một người học trò bí ẩn thường đến theo học. Thầy Chu khen cậu học trò chăm chỉ nhưng không rõ đến từ đâu.
Vì vậy, ông cho người theo dõi cậu học trò này. Thế nhưng, cậu học trò khi đi học về cứ đến đầm Đại thì lại biến mất. Thầy Chu cho rằng cậu học trò ấy là thủy thần.
Năm đó, thời tiết hạn hán kéo dài, dân chúng khắp nơi đói khổ không kể xiết. Thế nên, Chu Văn An cho gọi tất cả các học trò để hỏi xem có cách nào để cứu dân không. Cậu học trò hiếu học nhưng kỳ lạ đã thưa với thầy:
"Con vâng lời thầy là trái lệnh thiên đình, nhưng con cứ làm để giúp dân. Mai kia nếu có chuyện gì không hay, mong thầy chu toàn cho".
Sau đó, cậu mài mực rồi dùng bút vẩy mực lên trời và cầu khẩn. Cuối cùng, cậu học trò tung bút, nghiên lên trời. Bỗng dưng mây đen ùn ùn kéo đến và trời đổ mưa.
Đêm hôm đó, người dân nghe thấy tiếng sét đánh suốt cả đêm. Hôm sau, dân chúng phát hiện xác một con thuồng luồng nổi lên trên đầm Đại. Chu Văn An hay tin bèn cho người lập đền thờ, làm lễ hậu táng long trọng.
Tương truyền, khu vực nghiên mực rơi xuống nước được gọi là đầm Mực. Quản bút rơi xuống làng Tả Thanh Oai, Hà Nội. Từ đó, ngôi làng này đã trở thành quê hương của nhiều văn nhân tài ba như Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Chí, Ngô Thì Sĩ,...
Những tác phẩm nổi bật và câu nói hay
Các tác phẩm của Chu Văn An bị ảnh hưởng bởi triết lý Phật giáo và Nho giáo. Những tác phẩm của ông thường thể hiện cảnh đẹp đất nước kết hợp với quan điểm chính trị. Hiện nay, phần lớn các tác phẩm của đã thất truyền.
Bộ giáo trình “Tứ Thư Thuyết ước” được ông biên soạn, chắt lọc tinh túy từ bộ sách tứ thư Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử. Tiếc thay, tứ thư thuyết ước cũng đã thất lạc.
Những bộ sách nổi tiếng do ông sáng tác gồm có:
- Tứ thư thuyết ước
- Tiều ẩn quốc ngữ thi tập
- Tiều ẩn thi tập
Tác phẩm “Thất trảm sớ” mà ông dâng lên vua Trần Dụ Tông đã không còn. Ngoài ra, ông còn nghiên cứu y học và sáng tác “Y học yếu giải tập chu di truyền” ghi lại các phương thuốc chữa bệnh cơ bản.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn lưu giữ được 12 bài thơ của Chu Văn An được ghi chép trong sách “Thơ Văn Lý Trần tập 3, xuất bản 1978”:
- Cung hoạ ngự chế động chương
- Đề Dương công Thuỷ Hoa đình
- Giang đình tác
- Linh sơn tạp hứng
- Miết trì
- Nguyệt tịch bộ Tiên Du sơn tùng kính
- Sơ hạ
- Thanh Lương giang
- Thôn Nam sơn tiểu khế
- Thứ vận tặng Thủy Vân đạo nhân
- Vọng Thái Lăng
- Xuân đán
Một số câu nói hay của Chu Văn An như sau:
“ Lấy đức thắng người là mạnh. Lấy của thắng người là hùng. Lấy sức thắng người là mất”.
“Ta chưa từng nghe nói nước nào không coi trọng sự học mà khá lên được.”
Tưởng nhớ công lao
Năm 1997, chính phủ tỉnh Hải Dương đã bắt đầu trùng tu đền thờ Chu Văn An. Đến nay, đền thờ này đã hoàn thành. Ngày nay, khu tưởng niệm tọa lạc trên núi Phượng Hoàng là nơi du khách gần xa thường đến ghé thăm. Khu tưởng niệm Chu Văn An có 3 khu chính gồm: đền thờ, lăng mộ, điện Lưu Quang.
Bên trong ngôi đền có câu đối thờ như sau:
“Trần vãn thử hà thời, dục vịnh đại phi hiền giả lạc
Phượng sơn tồn ẩn xứ, trĩ lưu trường ngưỡng triết nhân phong”
Tạm dịch:
“Cuối đời Trần là thời nào, ngâm vịnh rong chơi chẳng phải là thú vui của bậc hiền giả?
Núi Phượng vẫn còn lưu dấu vết ở ẩn, đỉnh non vẫn mãi ngưỡng mộ phong cách kẻ triết nhân”
Ngoài ra, tên của ông còn được sử dụng để đặt tên cho nhiều ngôi trường như:
- Trường trung học phổ thông Chu Văn An, Thụy Khuê, Tây Hồ, thành phố Hà Nội (tên cũ trường Bưởi).
- Trường THCS Chu Văn An tại quận 11, thành phố Hồ Chí Minh.
- Trường đại học Chu Văn An tại tỉnh Hưng Yên.
- Trường tiểu học Chu Văn An quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội.
- Trường trung học phổ thông chuyên Chu Văn An thuộc tỉnh Bình Định.
Chu Văn An đã để lại di sản giáo dục quý giá cho đời sau. Càng hiểu thêm về cuộc đời của ông, chúng ta không khỏi khâm phục những nghĩa cữ cao đẹp, tinh thần vì dân vì nước.
Holaai hy vọng bạn sẽ ủng hộ chúng tôi bằng cách share bài viết này.
Nguồn tư liệu tham khảo:
Sách “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư”.
Sách “Chu Văn An - Người thầy của muôn đời” (NXB Chính trị quốc gia Sự Thật).
Sách “Thơ văn Lý Trần tập 3”.
Sách “Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Thiếp - Ba bậc thầy của giáo dục Việt Nam”.