Trong lịch sử vẻ vang hơn 4000 năm của nước Việt, ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên là dấu son sáng ngời cho công cuộc bảo vệ đất nước. Bài viết sau đây, chúng tôi sẽ trình bày hoàn cânh, tóm tắt diễn biến, nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử 3 cuộc chiến này.
Cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần 1
Hoàn cảnh - Nguyên nhân
Lúc bấy giờ, đế quốc Mông Cổ đang mở rộng lãnh thổ bằng vô số các cuộc chiến với các nước láng giềng. Khi đó, Thành Cát Tư Hãn đã qua đời. Mông Kha lên nắm quyền Khả Hãn tối cao của đế quốc. Năm 1257, Mông Kha mở cuộc chiến tranh với nước Nam Tống (Trung Quốc).
Mông Kha và em trai là Hốt Tất Liệt sai tướng Ngột Lương Hợp Thai đem quân đánh nước Đại Lý tạo thế “gọng kìm” tấn công Nam Tống. Sau khi Đại Lý bị chiến bại, Ngột Lương Hợp Thai 3 lần gửi thư cho vua Trần yêu cầu cho mượn đường để sang đánh Tống. Tuy nhiên, vua Trần Thái Tông từ chối, bắt giam sứ thần Mông Cổ, lại cho Trần Quốc Tuấn đem binh trấn giữ biên giới phía Bắc . Vì vậy, cánh quân do Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy quyết định tiến đánh nước ta.
>> Để hiểu rõ hơn về đế chế hùng mạnh này mời bạn xem thêm bài viết nhà Nguyên.
Tương quan lực lượng
Về phía nhà Trần, các tướng lĩnh và nhà vua đích thân cầm quân gồm:
Thượng hoàng Trần Thái Tông.
- Vua Trần Thánh Tông.
- Thái sư Trần Thủ Độ.
- Trần Nhật Hiệu.
- Trần Quốc Tuấn.
- Lê Phụ Trần.
- Hà Bổng.
Quân đội nhà Trần gồm có 100.000 quân gồm nhiều binh chủng như bộ binh, tượng binh, thủy binh.
Về phía quân đội Mông Cổ, lực lượng gồm có:
- Các tướng chỉ huy: Ngột Lương Hợp Thai, A Truật, Triệt Triệt Đô, Hoài Đô, Abiska.
- 30.000 quân Mông Cổ, 20.000 quân Đại Lý. (SGK lịch sử 7 ghi 30.000 quân Mông Cổ).
Lược đồ
Lược đồ cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần thứ nhất |
Tóm tắt diễn biến
Tóm tắt diễn biến cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên lần thứ 1 theo niên sử như sau:
- Tháng 1 năm 1258, Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy 3 vạn quân tấn công Đại Việt.
- Quân Mông Cổ tiến đánh theo đường sông Thao xuống Bạch Hạc (Việt Trì, Phú Thọ) đến vùng Bình Lệ Nguyên.
- Ngày 17 tháng 1 năm 1258, quân Mông Cổ đụng độ quân Đại Việt trong trận Bình Lệ Nguyên. Về phía Đại Việt, đích thân vua Trần Thái Tông chỉ huy nhưng thế giặc quá mạnh. Vì vậy, Trần Thái Tông phải cho lui quân. Triệt Triệt Đô tự sát vì làm trái lệnh Ngột Lương Hợp Thai để vua Trần chạy thoát.
- Ngày 18 tháng 1 năm 1258, quân Mông Cổ và quân Đại Việt tiếp tục đụng độ trong trận Phù Lỗ. Để bảo toàn lực lượng, vua Trần tiếp tục cho lui quân về Thăng Long.
- Sau đó, quân dân nhà Trần quyết định rời bỏ kinh thành Thăng Long về Thiên Mạc (Duy Tiên tỉnh Hà Nam) và thực hiện kế “vườn không nhà trống” (không để lại bất cứ lương thảo cho quân giặc).
- Quân Mông Cổ tiến vào kinh thành Thăng Long nhưng không chiếm được lương thực.
- Ngột Lương Hợp Thai phát hiện một sứ giả đã chết, cho người tàn phá kinh thành Thăng Long, giết sạch những người còn ở lại.
- Sau khi chiếm kinh thành, quân Mông Cổ lâm vào tình trạng thiếu lương thực trầm trọng.
- Thế nước Đại Việt lâm nguy, vua Trần Thái Tông hỏi ý kiến Thái Sư Trần Thủ Độ nhận được trả lời: “Đầu thần còn chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo”.
- Ngày 29 tháng 1 năm 1258, vua Trần Thái Tông và thái tử Trần Hoảng ngược sông Hồng phản công quân Mông Cổ trong trận Đông Bộ Đầu (phố Hàng Than, quận Ba Đình, Hà Nội).
- Quân Mông Cổ thua trận phải chạy trốn về nước. Đến Quy Hóa (Yên Bái tỉnh Lào Cai), quân Mông Cổ bị thổ quan người Tày là Hà Bổng huy động quân ra đánh.
- Vì lo sợ quân đội nhà Trần truy kích mà quân Mông Cổ rút lui rất nhanh mà không cướp phá. Vì vậy, quân Mông Cổ còn được dân gian gọi là giặc Bụt.
Cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần 2
Hoàn cảnh - Nguyên nhân
Lúc bấy giờ, Mông Cổ đã tiêu diệt Nam Tống. Năm 1271, Hốt Tất Liệt lên ngôi hoàng đế lập ra nhà Nguyên Trung Quốc.
Trần Thái Tông mất, Trần Thánh Tông nhường ngôi cho vua Trần Nhân Tông. Sứ giả nhà Nguyên là Sài Thung được cử sang nước Đại Việt, yêu cầu vua Trần Nhân Tông phải sang chầu nhưng nhà vua từ chối. Sang năm 1282, vua Nguyên là Hốt Tất Liệt lại cử sứ giả sang dụ rằng:
Nếu vua nước Nam không sang chầu được thì phải đưa vàng ngọc sang thay, và phải nộp hiền sĩ, thầy âm dương, bói toán, thợ khéo mỗi hạng 2 người.
(Trích dẫn sách Việt Nam Sử Lược)
Trần Nhân Tông đưa chú là Trần Di Ái đi chầu thay nhưng vua Nguyên không bằng lòng. Hốt Tất Liệt lại cử các quan nhà Nguyên lập Tuyên phủ ti giám sát nước Việt. Khi các quan sang đến Đại Việt bị vua Trần Nhân Tông đuổi về nước. Vua Nguyên tức giận bèn phong Trần Di Ái làm An Nam quốc vương, Lê Mục làm Hàn Lâm học sĩ, Lê Tuân làm Thượng Thư. Sài Thung được giao 1000 quân để hộ tống Trần Di Ái, Lê Mục, Lê Tuân về nước. Khi đoàn người đến gần ải Nam Quan, vua Trần Nhân Tông hay tin cho quân chặn đánh. Sài Thung bị bắn mù mắt, Trần Di Ái bị bắt.
Hốt Tất Liệt hay tin, sai hoàng tử Thoát Hoan làm chủ soái, cùng với các tướng Toa Đô, Ô Mã Nhi đem 50 vạn quân sang đánh Đại Việt. Quân đội nhà Nguyên lấy cớ là mượn đường sang đánh nước Chiêm Thành.
Chuẩn bị
Năm 1283, 1 vạn quân Nguyên Mông, 300 chiến thuyền sang xâm lược Cham-pa nhằm làm bàn đạp tấn công nước ta. Tuy chiếm được kinh thành Cham-pa nhưng quân Nguyên phải rút lui một bộ phận nhằm phối hợp tấn công Đại Việt.
Nhà Trần họp hội nghị Bình Than (nay là Chí Linh, Hải Dương) quyết định chống giặc. Trần Quốc Tuấn (Trần Hưng Đạo) được cử làm quốc Quốc Công Tiết Chế chỉ huy toàn bộ quân đội.
Năm 1285, Trần Hưng Đạo sáng tác Hịch tướng sĩ nhằm động viên tinh thần chiến đầu của binh sĩ. Cũng trong năm 1285, quân Nguyên Mông tiến sát biên giới nước ta. Vua Trần Nhân Tông mở hội nghị Diên Hồng hỏi ý các bô lão nên hòa hay nên đánh. Các bô lão đồng thanh hô nên đánh.
Trần Hưng Đạo tổ chức cho binh sĩ duyệt binh, tập trận lớn tại Đông Bộ Đầu rồi chia quân ra đóng giữ ở các nơi. Binh sĩ nhà Trần ai cũng thích chữ “Sát Thát” lên cánh tay nhằm tỏ ý giết giặc.
Lược đồ
Lược đồ cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần 2 |
Tóm tắt diễn biến
Cuối tháng 1 năm 1285, Thoát Hoan chỉ huy 50 vạn quân Nguyên tràn vào lãnh thổ Đại Việt. Quân Nguyên tiến đánh núi Kì cấp, ải Khả Li, ải Lộc Châu. Thế giặc cực mạnh, ải Khả Li và Lộc Châu thất thủ, quân ta lùi về giữ ải Chi Lăng. Thoát Hoan đem quân tiến đến đánh ải Chi Lăng. Trần Hưng Đạo cùng với 2 gia tướng là Yết Kiêu, Dã Tượng ra đến bến Bái Tân, xuống thuyền rút về Vạn Kiếp.
Vua Trần Nhân Tông hay tin, ngự thuyền đến hỏi Trần Hưng Đạo:
Thế giặc to như vậy, mà chống với nó thì dân sự tàn hại, hay là trẫm chịu hàng đi để cứu muôn dân.
Trích dẫn sách Việt Nam Sử Lược.
Trần Hưng Đạo đáp rằng:
Bệ hạ nói câu ấy thì thật là lời nhân đức, nhưng mà xã tắc Tôn Miếu thì sao? Nếu bệ hạ muốn hàng giặc thì trước hãy chém đầu thần rồi hãy hàng.
Trần Hưng Đạo lại tập trung quân tại Vạn Kiếp được hơn 20 vạn. Quân Nguyên kéo đến đánh Vạn Kiếp, quân ta lui về Thăng Long. Khi quân giặc kéo đến Thăng Long, quân ta bỏ thành, thực hiện chiến lược “vườn không nhà trống”, rút lui về Thiên Trường.
Lúc này, cánh quân của Toa Đô từ phía Chăm Pa đánh ra Nghệ An, Thanh Hóa. Thoát Hoan chỉ huy quân đội đánh xuống nhằm bắt sống vua Trần lúc này đang ở Thiên Trường. Trước tình cảnh nguy cấp, thượng tướng quân Trần Quang Khải đem binh trấn giữ vùng Nghệ An. Trần Bình Trọng giữ trấn giữ Thiên Trường. Trần Hưng Đạo rước xa giá vua Trần về Thanh Hóa, rồi lại đến Quảng Yên. Quân địch thất bại trong âm mưu bắt được lãnh đạo quân Đại Việt.
Một số quý tộc Đại Việt đầu hàng nhà Nguyên. Trần Ích Tắc theo nhà Nguyên, được Hốt Tất Liệt gia phong làm An Nam quốc vương.
Tuy nhiên, Trần Bình Trọng ở lại giữ Thiên Trường, Thoát Hoan vây đánh rồi bị bắt. Trần Bình Trọng thà chết chứ không đầu hàng giặc, để lại câu nói nổi tiếng:
Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc.
Lúc này quân Nguyên lui về giữ Thăng Long, lại thiếu thốn lương thực. Trước thế giặc đã không mạnh như lúc đầu, Trần Hưng Đạo quyết định mở cuộc phản công chống lại quân Nguyên. Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật làm chủ tướng, Trần Quốc Toản làm phó tướng chặn đánh cánh quân Toa Đô trong trận Hàm Tử, giành chiến thắng vẻ vang. Quân Toa Đô phải lùi về giữ bãi Thiên Trường.
Hay tin thắng trận, Trần Hưng Đạo hiến kế thừa thắng lấy lại kinh thành Thăng Long. Trần Quang Khải, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão đi thuyền đường vòng ra biển rồi bất ngờ đánh vào bến Chương Dương, giải phóng Thăng Long. Quân Thoát Hoan thua to phải bỏ thành Thăng Long rút lên phía Bắc Ninh.
Trong bữa tiệc khao thưởng ba quân, Trần Quang Khải vui vẻ sáng tác bài thơ sau:
Đoạt sáo Chương Dương Độ
Cầm hồ Hàm Tử Quan
Thái bình nghi nỗ lực
Vạn cổ thủ giang san.
Bản dịch của Trần Trọng Kim như sau:
Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy nghìn thu
Sau trận Chương Dương, cánh quân Toa Đô vẫn chưa hay biết Thoát Hoan thua trận. Tháng 5 năm 1858, Trần Hưng Đạo đích thân chỉ huy quân Đại Việt đánh bại quân Nguyên do Toa Đô chỉ huy trong trận Tây Kết. Toa Đô chết trận, Ô Mã Nhi bỏ trốn về nước.
Thoát Hoan hay tin cánh quân Toa Đô đã bại, muốn rút quân về nước. Tuy nhiên, Trần Hưng Đạo đích thân cầm đại binh truy đuổi. Nguyễn Khoái, Phạm Ngũ Lão đem 3 vạn quân phục kích bên bờ sông Vạn Kiếp. 2 con trai của Trần Hưng Đạo lại đem 3 vạn quân ra Quảng Yên chặn đường rút lui của quân Nguyên.
Trong trận Vạn Kiếp, quân Nguyên thua to, Thoát Hoan phải chui vào cái ống đồng để quân sĩ kéo chạy. Đến Quảng Yên, quân Nguyên lại bị chặn đánh thêm lần nữa. Quân Nguyên thua tan tác nhưng Thoát Hoan, Phàn Tiếp vẫn thành công chạy trốn về nước
Nguyên nhân thắng lợi
Về nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến lần thứ 2, chúng tôi xin trích dẫn lại lời của sử gia Trần Trọng Kim như sau:
Ấy cũng nhờ có tay Hưng Đạo Vương có tài đại tướng, cầm quân vững chãi, gan bền tựa sắt, vả lại khéo dùng lời khuyên dỗ, khiến cho bụng người cảm động sinh lòng trung nghĩa, cho nên tướng sĩ ai nấy đều hết lòng giúp nước.
Nước An Nam thời bấy giờ, vua tôi hòa hợp, lòng người như một, nhân tài lũ lượt kéo ra, mà quân Nguyên sang An Nam thì đường xa muôn dặm, núi sông cách trở, hùng mạnh được lúc đầu mà thôi, sau lại thành ra bệnh tật yếu đau. Như thế mà lại gặp phải tay Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn dụng binh biết đợi thời, biết thừa thế tiến thoái, cho nên quân nhà Nguyên thua tan nát là sự tất nhiên vậy.
Như vậy nguyên nhân thắng lợi chủ yếu của cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần 2 gồm:
- Khả năng chỉ huy thiên tài của Trần Hưng Đạo, chuẩn bị chu đáo, biết tận dụng thời cơ.
- Nhiều nhân tài xuất hiện, quân dân đồng lòng cùng chống giặc, vua tôi đoàn kết.
- Giặc Nguyên Mông phải hành quân xa, chiến sự nếu kéo dài dễ lâm vào thế bị động.
Ý nghĩa lịch sử
Chiến thắng quân Nguyên Mông lần thứ hai đã giúp Đại Việt bảo vệ lãnh thổ. Thể hiện sức mạnh quân sự, chiến thuật quân sự tài tình của quân đội nước nhà. Đập tan âm mưu bành trướng lãnh thổ của nhà Nguyên sang khu vực Đông Nam Á như Đại Việt và Chiêm Thành.
Cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần 3
Hoàn cảnh - Nguyên nhân
Sau hai lần đánh Đại Việt đều thất bại, vua nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt vô cùng tức giận, quyết tâm cử binh đánh nước Nam để phục thù. Lúc này, nhà Nguyên đang chuẩn bị đánh Nhật Bản nhưng Hốt Tất Liệt cho dừng lại để đánh Đại Việt.
Tuy nhiên, Hốt Tất Liệt tự phong cho Trần Ích Tắc làm An Nam quốc vương, lấy cớ đưa về nước lên ngôi mà dấy binh sang nước Đại Việt.
Nhà Nguyên đã huy động 30 vạn quân, Thoát Hoan làm nguyên soái, Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp giữ chức tham tri chính sự. Về vấn đề lương thực, Trương Văn Hổ đi đường biển chở theo 17 vạn thạch lương (theo sách Việt Nam Sử Lược).
Lược đồ
Diễn biến
Cuối tháng 12 năm 1287, quân Mông Nguyên bắt đầu cuộc tấn công vào lãnh thổ Đại Việt. Trong đó, Thoát Hoan chỉ huy đạo quân đường bộ đánh vào Lạng Sơn, Bắc Giang. Ô Mã Nhi theo đường thủy ngược sông Bạch Đằng, tiến về hội quân với Thoát Hoan. Bố trí lực lượng phòng thủ của quân ta như sau:
- Trần Nhật Duật, Nguyễn Khoái chỉ huy 3 vạn quân trấn giữ Lạng Sơn.
- Lê Phụ Trần, Trần Quốc Toản đem 3 vạn quân phòng thủ Nghệ An.
- Đích thân Trần Hưng Đạo đem quân trấn thủ vùng Quảng Yên (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh).
Trước thế tấn công mạnh mẽ của quân Nguyên, Trần Hưng Đạo phải cho lùi quân khỏi Vạn Kiếp, tập hợp quân trở về vùng sông Đuống nhằm chặn quân địch chiếm thành Thăng Long.
Lúc này, quân của Thoát Hoan thành công chiếm được Vạn Kiếp, lập cứ điểm ở đây.
Cuối tháng 1 năm 1288, Thoát Hoan chia quân làm 3 hướng, đánh chiếm thành Thăng Long. Tuy chiếm được kinh thành nhưng quân dân Đại Việt đã rút lui mà không để lại lương lực cho địch, áp dụng triệt để chiến thuật “vườn không nhà trống”.
Đội quân của Thoát Hoan lương thực sắp cạn nên lệnh cho cánh thủy quân do Ô Mã Nhi chỉ huy gấp rút vận chuyển lương thảo.
Đội quân của Ô Mã Nhi truy bắt xa giá vua Trần nhưng nhà vua đã vượt biển về Thanh Hóa. Ô Mã Nhi tiếp tục dẫn đầu đoàn thủy quân đi ngang qua Thái Bình, cho người phá hủy lăng thờ các vua nhà Trần.
Khi đến Vân Đồn, Ô Mã Nhi đụng độ quân của Trần Khánh Dư. Theo sách Việt Nam Sử Lược, trong lần đụng độ đầu tiên, Trần Khánh Dư thua trận. Sau đó, đội quân của Ô Mã Nhi đi trước về hội quân với Thoát Hoan. Đoàn thuyền chở lương thực, binh khí do Trương Văn Hổ chỉ huy theo sau. Tận dụng thời cơ đó, tướng Trần Khánh Dư đánh chặn đoàn thuyền quân lương này, thu hoạch đại thắng. Đa số các thuyền quân lương của địch bị đánh chìm. Quân Đại Việt thu được khí giới nhiều vô số.
>> Xem bài viết tường thuật diễn biến trận Vân Đồn.
Sau chiến thắng Vân Đồn, quân Thoát Hoan lâm vào cảnh thiếu lương, có ý định rút binh về nước. Các tướng dưới trướng Thoát Hoan bàn rằng:
“Quân ta đóng ở đây, thành trì đã không có, kho tàng lại cạn cả; và bây giờ là đang lúc hết xuân sang hạ, khí trời nồng nực, mà lại những chỗ hiểm yếu đều mất cả, chi bằng hãy rút quân về, rồi sau sẽ liệu kế khác.”
Trích dẫn sách Việt Nam Sử Lược - tác giả Trần Trọng Kim
Thoát Hoan nghe theo, bèn chia quân theo hai đường thủy bộ để về nước. Thủy quân do Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp chỉ huy rút về theo đường sông Bạch Đằng. Về phía Đại Việt, Nguyễn Khoái bí mật cho binh lính đóng cọc nhọn bịt sắt vào lòng sông Bạch Đằng. Phạm Ngũ Lão, Phạm Chế Nghĩa lại đem binh mai phục ở ải Nội Bàng (nay thuộc Lạng Sơn).
Khi quân Nguyên do Ô Mã Nhi đến sông Bạch Đằng. Nguyễn Khoái đem thủy quân giả vờ đánh thua dụ địch vào trận địa cọc ngầm. Khi quân địch đuổi tới, nước thủy triều rút xuống làm lộ ra bãi cọc ngầm. Quân Đại Việt 2 bên bờ đánh xuống, thuyền của quân Mông Nguyên lại va vào bãi cọc, đắm rất nhiều. Sau trận Bạch Đằng Giang năm 1288, thủy quân của quân Nguyên Mông tan vỡ. Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp bị bắt.
Ở phía cánh quân đường bộ, Thoát Hoan chỉ huy quân Nguyên rút lui bị Phạm Ngũ Lão chặn đánh. Thoát Hoan thành công chạy thoát về nước nhưng quân Mông Nguyên thiệt hại nặng nề.
Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử ba lần kháng chiến chống quân Mông Nguyên
Nguyên nhân thắng lợi
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên như sau:
- Tất cả các tầng lớp nhân dân đều đoàn kết chống giặc, bảo vệ quê hương đất nước.
- Nhà Trần đã có những chuẩn bị chu đáo cho cuộc chiến. Đời sống vật chất, tinh thần người dân được đảm bảo nhằm tạo nên sự đoàn kết của cả dân tộc.
- Tầng lớp quý tộc, hoàng tộc nhà Trần đã giải quyết các mâu thuẫn nội bộ để cùng chống giặc.
- Khả năng chỉ huy tài tình của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Đặc biệt, ông có công lao to lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần thứ 2 và lần thứ 3.
- Chiến thuật quân sự sáng tạo, đúng đắn.
- Các tướng tài xuất hiện lớp lớp như Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng, Trần Bình Trọng, Nguyễn Khoái, Trần Thủ Độ.
Ý nghĩa lịch sử
Ba lần chiến thắng quân xâm lược Mông Nguyên có ý nghĩa to lớn đối với lịch sử dân tộc Việt Nam. Đập tan tham vọng bành trướng lãnh thổ, xâm chiếm nước Đại Việt của nhà Nguyên.
Đồng thời chiến thắng này đã khẳng định sức mạnh quân sự của Đại Việt, tô thắm lòng tự hào dân tộc, vun đắp truyền thống chống giặc ngoại xâm.
Không chỉ dừng lại ở đó, chiến thắng Mông Nguyên còn là bài học quý giá về việc dựa vào sức dân để đánh giặc giữ nước.
Khoan thư sức dân, để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước.
Trích dẫn sách Đại Việt Sử Ký toàn thư
Quan hệ ngoại giao sau chiến tranh Đại Việt - Mông Nguyên
Theo sách Việt Nam Sử Lược, sau 3 lần thua Đại Việt, Hốt Tất Liệt vẫn chưa nguôi giận, định đem binh báo thù. Tuy nhiên, quần thần can ngăn, đề nghị cử sứ giả sang Đại Việt yêu cầu vua sang chầu đã. Vua Nguyên nghe theo, sai sứ giả sang Đại Việt. Vua Trần Nhân Tông viện cớ đang có tang, lại cử Nguyễn Đại Phạp đi chầu thay. Nguyễn Đại Phạp sang đến nước Nguyên, bảo sang năm vua Nhân Tông sang chầu.
Tuy nhiên, một năm sau, vua nước Nam cũng không đến chầu. Hốt Tất Liệt bèn sai Lại bộ Thượng Thư Lương Tằng và Lễ bộ thượng thư Trần Phu sang yêu cầu vua Nhân Tông sang chầu. Lần này, vua Trần Nhân Tông cũng không đi mà sai Đào Tử Kỳ đi sứ đem cống phẩm sang.
Vua Nguyên tức giận, bắt giam Đào Tử Kỳ, sai tướng sửa sang quân đội, chuẩn bị chọn ngày sang đánh nước ta. Tuy nhiên, nhà Nguyên đang chuẩn bị quân đội thì Hốt Tất Liệt qua đời. Vua mới lên ngôi là Nguyên Thánh Tông ra lệnh thả Đào Tử Kỳ, bãi binh không đánh Đại Việt nữa. Từ đó, nhà Nguyên với Đại Việt mới không còn chiến tranh nữa.
Holaai.org vừa gửi đến bạn nội dung về chiến thắng lịch sử Đại Việt ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên. Hy vọng bạn đọc sẽ tiếp tục ủng hộ chúng tôi trong những bài viết tiếp theo.
Tài liệu tham khảo:
- Sách Việt Nam Sử Lược, tác giả Trần Trọng Kim.
- Sách giáo khoa lịch sử lớp 7, NXB Giáo Dục.
- Sách Đại Việt Sử Ký toàn thư.