Tóm tắt tiểu sử Phan Châu Trinh - Những câu nói hay

Nguyễn Minh Khánh
tháng 5 28, 2023
Last Updated

 Phan Châu Trinh không chỉ là một nhà hoạt động chính trị thời cận đại trong lịch sử Việt Nam mà còn là một nhà thơ, nhà văn nổi tiếng. Ông chủ trương “Ỷ Pháp cầu tiến bộ” tức đề nghị Pháp thi hành chính sách cải cách, bài trừ các hủ tục lạc hậu, nâng cao dân trí, sau khi đất nước vững mạnh sẽ ép Pháp trao trả độc lập. Dưới đây, chúng tôi sẽ giới thiệu đến bạn cuộc đời và con đường hoạt động cứu quốc của Phan Châu Trinh.

Gia đình và xuất thân

Phan Châu Trinh được sinh vào năm 1872 tại làng Tây Lộc nay thuộc Tam Lộc, Phú Ninh, Quảng Nam. Ông lấy tự là Tử Cán, hiệu là Tây Hồ, Hy Mã. Cha của ông là Phan Văn Bình, đảm nhận vị trí Chuyển vận sứ đồn A Bá phụ trách việc quân lương. Mẹ ông là bà Lê Thị Trung, con gái nhà danh gia vọng tộc, thông thạo chữ Hán. Năm lên 6 tuổi, mẹ ông qua đời, quê nhà bị Pháp đốt cháy trong cuộc đàn áp phong trào Cần Vương. Ông phải bôn ba theo cha, được cha dạy chữ và võ thuật. Sau khi cha mất, Phan Châu Trinh trở về quê ở với anh trai và tiếp tục việc học.

Phan Châu Trinh
Chân dung Phan Châu Trinh


Từ nhỏ, Phan Châu Trinh đã nổi tiếng học giỏi, thông minh. Ông đỗ Cử nhân vào năm 1900, đến năm 1901 ông đỗ Phó bảng. Nhờ vào tài năng, năm 1903, ông đã được bổ thừa biện bộ Lễ. Trong suốt thời gian làm việc tại Huế, ông đã có cơ hội tiếp xúc với tân thư của Lương Khải Siêu, sách của nhà Cách mạng dân chủ  tư sản Trung Quốc, cùng nhiều kế sách hay của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch,... Từ đó, ông đã ý thức và có tư tưởng mới về con đường cứu nước. Phan Châu Trinh quyết định từ quan, đi tìm con đường cứu nước. 

Tóm tắt tiểu sử Phan Châu Trinh

Giai đoạn năm 1904 - 1913

Năm 1904, ông cùng với Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp phát động phong trào Duy Tân ở Quảng Nam. 

Năm 1905, ông xuất dương sang Nhật Bản rồi sang Pháp với chủ trường dựa vào Pháp để thực hiện cải cách, lật đổ chính quyền phong kiến, thực hiện tự do dân tộc và giải phóng đất nước. 

Năm 1906, ông sang Nhật Bản gặp gỡ nhà cách mạng tư sản Phan Bội Châu. Sau khi về nước, ông tích cực truyền bá chủ trương cải cách của mình. Thực dân Pháp lúc này đã để ý căm thù và triều đình Huế cũng quyết tìm cách hãm hại ông. Tuy nhiên ông vẫn đứng lên lãnh đạo phong trào Duy Tân. 

Tháng 7/1907, Phan Châu Trinh ra Hà Nội để tham gia giảng dạy ở Đông Kinh Nghĩa Thục. Các buổi diễn thuyết của ông được rất nhiều người hưởng ứng. Ngoài ra ông còn mở rộng giao du với một số người Pháp. 

Năm 1908, lần lượt các vụ Hà thành đầu độc ở Hà Nội và phong trào chống sưu thuế của nông dân Trung Kỳ được nổ ra tuy nhiên đã bị bị Thực dân Pháp đàn áp. Đến tháng 4/1908, Phan Châu Trinh bị bắt giam tại Hà Nội, 6/1908 ông bị đày ra Côn Đảo. 

Năm 1910, nhờ sự can thiệp của Hội Nhân quyền Pháp, ông được trả lại tự do nhưng bị quản thúc tại Mỹ Tho. Tuy nhiên ông lại viết thư gửi Toàn quyền và đòi được sang Pháp hoặc quay lại Côn Đảo, nhất định không chịu cảnh giam lỏng. Năm 1911, Chính quyền Đông Dương đã cử một đoàn giáo dục sang Pháp, trong đó có cả Phan Châu Trinh. 

Năm 1913, ông đã tập hợp, chỉnh lý và hoàn thiện nhiều công trình chuyên khảo, các bản chính luận viết bằng chữ Hán nhằm kêu gọi và thức tỉnh tỉnh tinh thần Cách mạng như: Trung kỳ thuế sưu, Đông Dương chính trị luận, Pháp - Việt liên hiệp hậu chi Tân Việt Nam,...

Giai đoạn năm 1914 - 1926

Năm 1914, Phan Châu Trinh lại một lần nữa bị bắt giam vào ngục Santé vì bị tình nghi có liên hệ với nước Đức. Tuy nhiên nhờ sự can thiệp của Đảng Xã hội Pháp mà ông được thả ra. Đến năm 1917, ông cùng với Nguyễn Tất Thành và Phan Văn Trường lập ra Hội người Việt Nam yêu nước tại Pháp. 

Ngày 19/6/1919, Bản Yêu sách của nhân dân An Nam được soạn thảo hoàn chỉnh bởi ông cùng Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành. Sau đó bản Yêu sách đã được gửi cho Hội nghị Versailles, ký tên là Nguyễn Ái Quốc, điều này đã làm nổ ra “quả bom chính trị” tại Pháp. 

Năm 1920, Phan Châu Trinh đã hội kiến với Bộ trưởng Bộ thuộc địa Anbe Saro đòi cải cách chính trị ở Đông Dương. Đến năm 1922, Vua Khải Định sang Pháp dự đấu xảo Marseille, ông đã viết “Thất điều thư” buộc tội vua Khải Định và khuyên ông phải về nước gấp, đừng ở lại để làm nhục quốc thể. 

Năm 1925, Phan Châu Trinh về lại Sài Gòn và tiếp tục hoạt động theo xu hướng cải lương, kêu gọi dân quyền, dân sinh và dân khí. Ông đã có hai lần diễn thuyết tại Sài Gòn với hai chủ đề: Đạo đức và luân lý Đông Tây; Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa.

Năm 1926, ông trở bệnh nặng và mất vào ngày 24/3/1926 tại Sài Gòn. Ngày 4/4/1926, lễ an táng của ông được cử hành một cách trang trọng theo tinh thần của một quốc tang. 

Chủ trương cứu nước và xu hướng cải cách

Phan Châu Trinh chủ trương đấu tranh ôn hòa, sử dụng các biện pháp cải cách nhằm nâng cao dân trí dân quyền, dựa vào sức mạnh của Pháp để lật đổ chính quyền Phong kiến hủ bại. Bên cạnh đó, ông còn phản đối việc sử dụng bạo động vũ trang để giành độc lập. 

Có thể thấy, chủ trương cứu nước của cụ Phan Châu Trinh được hiện thực hóa bằng cách cải cách văn hóa, nâng cao dân trí, phát triển nền kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa trong khuôn khổ hợp pháp. Tất cả đều mang mục đích thúc đẩy kinh tế, dân giàu nước mạnh, lúc này chúng ta mới có thể buộc Pháp trao trả độc lập. 

Với ông, nhiệm vụ cấp bách của đất nước hiện tại phải tập trung vào ba mục tiêu chính: 

  • Chấn dân khí: Thức tỉnh tinh thần dân tộc, tự giác ngộ được quyền lợi và nghĩa vụ của bản thân, loại bỏ nọc độc chuyên chế. 
  • Khai dân trí: Xóa bỏ lối học tầm chương trích cú, tiến hành mở trường dạy Quốc ngữ cho học sinh, kiến thiết Khoa học thực dụng, bài trừ các hủ tục lạc hậu, sống tiết kiệm, văn minh. 
  • Hậu dân sinh: Đẩy mạnh phát triển kinh tế, nâng cao đời sống cho nhân dân. Đưa ra định hướng làm ăn như: khẩn hoang làm vườn, sản xuất hàng nội hóa, lập hội buôn,...

Phong cách sáng tác và tác phẩm nổi bật của Phan Châu Trinh

Phong cách sáng tác

Không chỉ có tư duy đổi mới, ông còn dùng văn chương để làm Cách mạng, dùng ngòi bút của mình để chống lại kẻ thù. Phong cách sáng tác của ông luôn đậm chất hùng biện, lập luận chặt chẽ, đanh thép. Ngược lại các tác phẩm thơ ca lại dạt dào tình yêu quê hương đất nước, nỗi lòng trăn trở về đồng bào, tất cả đều thấm nhuần tư tưởng yêu nước. 

Tác phẩm

Phan Châu Trinh sáng tác rất nhiều tác phẩm tiêu biểu, ngay từ khi còn đi học ông đã bắt đầu làm thơ, mãi đến sau này khi tham gia hoạt động cách mạng ông vẫn tiếp tục sự nghiệp sáng tác của mình. Nổi bật nhất phải kể đến dòng văn chính luận, thơ, soạn tuồng, viết văn,... Ông sáng tác bằng cả ba loại chữ gồm: chữ Nôm, chữ Hán và chữ Quốc ngữ.

Phan Châu Trinh đã dành nhiều thời gian cho việc sáng tác văn thơ và kết giao với nhiều sĩ phu yêu nước như: Phan Bội Châu, Ngô Đức Kế… Dưới đây là một số tác phẩm tiêu biểu của ông đã được lưu danh đến tận bây giờ: 

  • Đầu Pháp chính phủ thư (1906)
  • Hiện trạng vấn đề (1907)
  • Hợp quần doanh sinh thuyết quốc âm tự (1907)
  • Tây Hồ thi tập (tập hợp thơ làm trong nhiều năm)
  • Tuồng Trưng Nữ Vương (soạn chung với Huỳnh Thúc Kháng và Phan Thúc Duyện năm 1910)
  • Trung Kỳ dân biến tụng oan thủy mạt ký (1911)
  • Santé thi tập (gồm hơn 200 bài thơ, soạn trong tù tại Pháp, 1915)
  • Thư thất điều (thư vạch 7 tội của vua Khải Định, 1922)
  • Giai nhân kỳ ngộ diễn ca (gồm hơn 7.000 câu thơ lục bát, soạn 1912-1913)
  • Bức thư trả lời cho người học trò tên Đông (1925)
  • Đông Dương chính trị luận (1925)
  • Đạo đức và luân lý Đông Tây (1925)
  • Quân trị chủ nghĩa và Dân trị chủ nghĩa (1925)

Thông tin về lăng mộ Phan Châu Trinh

Hiện tại, khu lăng mộ của ông được xây dựng trong khu đất rộng khoảng 2.000m2 nằm trên đường Phan Thúc Duyện, quận Tân Bình, TP. HCM. Đền thờ được xây dựng mô phỏng theo kiến trúc đền cũ với nền hình bát giác, mái ba tầng phong cách cổ điển. 

Mộ phần của ông được nằm ở giữa, hình chữ nhật. Mặt trước mộ phần được khắc văn tự đề: “Việt Nam chính trị cách mạng gia. Phan Châu Trinh tiên sinh chi mộ. Quốc dân đồng kính tạo”.

Lúc ban đầu, mộ phần của Phan Châu Trinh tương đối nhỏ, nay đã được tu bổ hoàn thiện theo kiểu một ngôi nhà mồ rộng rãi, có mái ngói che nắng, có hai dãy ghế đá dài để du khách có thể nghỉ ngơi. Phía sau phần mộ là tấm bia đá viết về thân thế sự nghiệp của cụ Phan do Huỳnh Thúc Kháng biên soạn. Toàn bộ tấm bia đá được làm bằng chất liệu cẩm thạch với chiều cao 3,6m, chiều rộng 3m. Phía bên trái là nơi thờ phu nhân và các con của Phan Châu Trinh còn bên phải là bia ghi công đức.

Ngoài ra, nằm trong khuôn viên lăng mộ của ông còn có nhà lưu niệm. Đây là nơi lưu giữ bút tích, di vật cùng rất nhiều tư liệu, hiện vật về hoạt động Cách mạng của ông..

Những câu nói hay của Phan Châu Trinh

Với ngòi bút đanh thép cùng lý luận sắc bén của ông, có rất nhiều câu nói nổi tiếng đã được lưu danh và được người đời lưu truyền rộng rãi. Dưới đây là một số câu nói ấn tượng của ông: 

“Không bạo động, bạo động tất chết! Không trông người nước ngoài, trông người nước ngoài tất ngu! Đồng bào ta, người nước ta, ai mà ham mến tự do, tôi xin có một vật rất quý báu tặng cho đồng bào, là “Chi Bằng Học”.

“Không cần hô hào đánh Pháp, chỉ nên đề xướng dân quyền, dân đã giác ngộ quyền lợi của mình, bấy giờ mới có thể dần dần mưu tính đến việc khác”.

“Tôi xin nói thực với các anh, tôi đã bỏ hai phần ba đời tôi để tìm lấy thuốc mà chữa trị cho nước nhà. Thông minh tôi tuy kém, tài trí tôi tuy hèn, nhưng trong buổi giao thời này tôi có thể dám nói rằng: cái trách nhiệm của nòi giống dân tộc Việt Nam tôi quyết không nhường cho ai cả”.

“Trong khi người nước ngoài có chí cao, dám chết vì việc nghĩa, vì lợi dân ích nước; thì người nước mình tham sống sợ chết, chịu kiếp sống nhục nhã đoạ đày”.

“Trong khi họ làm việc quan cốt ích nước lợi dân, đúng là “đầy tớ” của dân, được dân tín nhiệm; thì ta lo xoay xở chức quan để no ấm gia đình, vênh vang hoang phí, vơ vét áp bức dân chúng, v.v…”.

Có thể nói, cụ Phan Châu Trinh là người anh hùng cách mạng với tư tưởng đổi mới. Ông là người đã nhìn thấy được trước cảnh “dịch chủ tái nô” (tuy đổi chủ nhưng vẫn nhân dân vẫn là nô lệ). Để tránh lặp lại điều này, ông đã chỉ ra một con đường mới để giành lại độc lập, tự do cho dân tộc.

TrendingTrang chủ