Người Việt Nam không ai là không biết đến tác giả Nguyễn Du với tác phẩm bất hủ Truyện Kiều. Hôm nay, hãy cùng chúng tôi tìm hiểu xem ngoài Truyện Kiều, con đường quan lộ và văn chương của Nguyễn Du còn có những gì đặc sắc nhé.
Tóm tắt tiểu sử
Tượng tác giả Nguyễn Du |
- 1766: Nguyễn Du ra đời. Những năm đầu của tuổi ấu thơ ông sống trong giàu sang phú quý.
- 1779: Nguyễn Du mồ côi cả cha lẫn mẹ, chuyển đến ở với người anh Nguyễn Khản.
- 1780: Nguyễn Khản vướng án mưu loạn, bị bãi chức và bị giam giữ ở nhà Châu Quận công. Nguyễn Du chuyển đến ở với Đoàn Nguyễn Tuấn tại Sơn Nam Hạ.
- 1783: Vào kỳ thi Hương, Nguyễn Du xuất sắc thi đỗ Tam trường (Sinh đồ). Sau đó, ông lập gia đình.
- 1805: Nguyễn Du được thăng Đông các học sĩ, tước Du Đức hầu và vào nhậm chức ở kinh đô Phú Xuân.
- 1809: Nguyễn Du được được thăng chức Cai bạ, hàm Tứ phẩm đã thuộc hàng quan to ở Quảng Bình.
- 1813: Nguyễn Du được thăng Cần chánh điện học sĩ (chính Tam phẩm) và được cử làm chánh sứ sang nhà Thanh.
- 1814: Sau khi đi sứ về, Nguyễn Du được thăng Lễ bộ hữu Tham tri (tòng Nhị phẩm).
- Năm 1820: Nguyễn Du mắc bệnh tả qua đời, thọ 54 tuổi.
Gia đình và học vấn
Nguyễn Du sinh ra trong một gia đình có truyền thống làm quan lại và hiếu học. Về dòng họ này, có câu ca dao của người địa phương truyền miệng:
Bao giờ ngàn Hống hết cây,
Sông Rum hết nước, họ này hết quan.
Cụ thân sinh của Nguyễn Du là Hồng Ngự cư sĩ Nguyễn Nghiễm, nguyên quán ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Ông đã có lần thăng tiến đến chức Tể tướng, tước Xuân Quận công. Hồng Ngự cư sĩ có đến 8 người vợ và 21 người con.
Còn thân mẫu là bà Trần Thị Tần, con gái một người làm chức Câu kế (kế toán) ở Bắc Ninh và là vợ ba của Nguyễn Nghiễm. Bà qua đời khi Nguyễn Du 12 tuổi.
Tổ tiên của Nguyễn Du vốn sinh sống ở Hà Nội, đã từng nổi tiếng với câu chuyện Trạng Cậu, Trạng Cháu, sau này mới di cư ra Hà Tĩnh, mở đầu cho dòng họ Nguyễn ở Tiên Điền.
Ngoài ra, ông còn có anh trai cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản cũng là một người tài, phục vụ dưới triều Lê - Trịnh. Khản làm quan đến chức Nhập thị bồi tụng, lại xuất sắc về mảng thơ Nôm, thường làm thơ đối đáp với chúa Trịnh Sâm.
Thuở nhỏ, Nguyễn Du được cha cho học hành rất chăm chỉ. Cha mất, ông ở với người anh cả Nguyễn Khản. Nguyễn Khản bị bắt, ông ở cùng một người thân của cha là Đoàn Nguyễn Tuấn tiếp tục ăn học. Năm 1783, Nguyễn Du đậu Sinh đồ trong kỳ thi Hương và từ đó trải qua nhiều chức vụ trong triều đình.
Sự nghiệp sáng tác
Dòng họ Nguyễn Du không chỉ có truyền thống làm quan, mà còn rất nhiều người trong họ làm văn, làm thơ, viết sách. Nguyễn Quỳnh, ông nội Nguyễn Du tương truyền là một nhà triết học chuyên nghiên cứu Kinh Dịch. Hay cha ông, Nguyễn Nghiễm là một nhà thơ. Còn Nguyễn Khản anh cả Nguyễn Du là một trong những người có công dịch Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn ra tiếng Việt. Rồi còn anh trai, cháu trai của ông cũng được biết đến với tài thơ phú. Không nằm ngoài dòng chảy văn chương của gia đình, Nguyễn Du cũng đã trở thành một cây bút kiệt xuất của thế kỷ 19, mà đỉnh cao là Truyện Kiều. Nhưng có phải, người danh nhân ấy chỉ có mỗi Truyện Kiều?
Câu trả lời là không. Nguyễn Du có cho mình một nền tảng học vấn uyên bác, nắm vững các quy luật của nhiều thể thơ chữ Hán, lại là người từng trải, chiêm nghiệm nhiều. Vì thế, ở thể loại nào, ngôn ngữ nào ông cũng có bài xuất sắc. Các tác phẩm ông để lại, chúng tôi xin chia ra làm 2 phần: chữ Nôm và chữ Hán, để độc giả hiểu rõ hơn.
Tác phẩm bằng chữ Hán
Như đã nói ở trên, Nguyễn Du là người nắm vững các thể thơ Đường luật, vì thế mà các sáng tác của ông bằng Hán ngữ rất nhiều và phong phú. Tiếc thay, những tác phẩm ấy có thời gian thất lạc. Mãi đến năm 1965, Lê Thước và Trương Chính mới tìm kiếm, sưu tầm được 249 bài. Tất cả được nhà xuất bản Văn học cho in và phát hành trong tập Thơ chữ Hán Nguyễn Du, bao gồm
Thanh Hiên thi tập, nghĩa là tập thơ của Thanh Hiên, có 78 bài, được ông viết ở tuổi niên thời, khi chưa thi đỗ và ra làm quan.
Nam trung tạp ngâm, nghĩa là ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam, có 40 bài, sáng tác trong giai đoạn Nguyễn Du làm quan ở miền Trung.
Bắc hành tạp lục , nghĩa là ghi chép linh tinh trong chuyến đi sang phương Bắc, có 131 bài thơ, viết trong lúc ông đi sứ sang Trung Quốc .
Tác phẩm chữ Nôm
Ngoài những bài thơ chữ Hán sâu sắc, Nguyễn Du còn có cho mình một kho tàng sáng tác chữ Nôm đồ sộ, có thể kể đến như:
Đoạn trường tân thanh, nghĩa là tiếng kêu xé lòng, ngày nay lưu hành phổ biến với tên gọi Truyện Kiều, là tác phẩm đỉnh cao nhất trong các sáng tác bằng chữ Nôm của Nguyễn Du. Bài thơ được viết theo thể lục bát, gồm 3.254 câu thơ. Về nội dung, Truyện Kiều dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Nhân vật chính là Vương Thúy Kiều, một cô gái tài sắc vẹn toàn, phải bán mình vì chữ hiếu. Cô trải qua bao thăng trầm, nhiều sóng gió kể từ đó.
Văn chiêu hồn, tên khác là Văn tế thập loại chúng sinh, viết bằng thể thơ song thất lục bát gồm 184 câu chữ Nôm. Về thời điểm sáng tác vẫn chưa ai biết đích xác. Có giả thiết rằng tác phẩm ra đời sau một thảm họa khiến vô vàn người chết. Khắp nơi trên đất Việt, các linh hồn chưa được siêu thoát để lại âm khí nặng nề.
Quê mẹ Nguyễn Du là cái nôi của dân ca quan họ Bắc Ninh, lại được sinh ra trên mảnh đất dân ca Nghệ Tĩnh, những làn điệu ngọt ngào ấy như dòng sữa mẹ nuôi lớn đại thi hào dân tộc. Cảm xúc dạt dào trong câu hát bồi đắp thêm cho tâm hồn, rồi lại đi vào những câu thơ lay động lòng người. Từ thơ ca chữ Hán cho đến chữ Nôm, ở đề tài nào độc giả cũng có thể thấy được cái tình rất đỗi sống động và phong phú.
Đặc biệt với Đoạn trường tân thanh, đại thi hào Nguyễn Du đã giải một bài toán khó, đó là đưa được yếu tố tự sự vào thể loại trữ tình, khai sinh ra thể loại truyện thơ.
Nguyễn Du và Truyện Kiều
Đoạn trường tân thanh, hay Truyện Kiều, là tác phẩm đỉnh cao của Nguyễn Du và của nền văn học Việt Nam, không chỉ gây tiếng vang trong nước mà còn được lòng nhiều bạn bè quốc tế.
Thời điểm Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều vẫn chưa được thống nhất. Và Từ điển văn học (bộ mới) có đoạn : "Có thuyết cho rằng Nguyễn Du viết ra sau khi ông đi sứ Trung Quốc (1814-1820), có thuyết cho nói ông viết trước khi đi sứ, có thể vào khoảng thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình (1804-1809). Thuyết sau được nhiều người chấp nhận hơn".
Sau khi Nguyễn Du qua đời, bài bình đầu tiên về Truyện Kiều của Mộng Liên Đường Chủ Nhân ra đời:
“… nếu không có con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời thì tài nào có cái bút lực ấy”.
Từ đó đến nay, đã hàng trăm năm trôi qua vậy mà chúng ta vẫn bắt gặp vô vàn những lời bình, những bài luận của cả những nhân vật có dấu ấn nói về Truyện Kiều. Chỉ riêng điều đó thôi cũng đủ để minh chứng cho sức sống trường tồn của Truyện Kiều
Truyện thơ về nàng Thúy Kiều không còn nằm trong khuôn khổ của một tác phẩm văn học nữa. Nó đã hình thành nên một môi trường văn hóa Kiều phong phú đặc biệt với nhiều hình thức như: bói Kiều, lẩy Kiều, vịnh Kiều, tập Kiều, chèo Kiều… Không những vậy, còn bao nhiêu tác phẩm nghệ thuật, từ thi ca nhạc hoạ, cho đến kịch, tuồng chèo hay điện ảnh đã được lấy cảm hứng từ đây.
Đọc hết 3.254 câu Kiều,ta mới nhận ra vì đâu Truyện Kiều lại là bộ mặt của Việt Nam, một danh tác thế giới. Tiếng Việt ở trong Truyện Kiều là thứ tiếng Việt hoàn mỹ, vừa cầu kỳ công phu lại thân thương gần gũi. So với cốt truyện của Kim Vân Kiều truyện còn nhiều chi tiết thô tục, tầm thường thì Đoạn trường tân thanh đã tiết chế hay thậm chí lược bỏ. Lại kết hợp với thể loại lục bát giàu tính biểu cảm, tác phẩm xứng đáng là đoá sen vàng của cả nhân loại.
Sở dĩ chúng tôi dùng từ nhân loại bởi Truyện Kiều đã có sức ảnh hưởng ra cả thế giới. Tính đến nay, Truyện Kiều đã được dịch thành 20 ngôn ngữ với tổng số là 75 bản dịch. Một số ngôn ngữ có nhiều hơn 1 bản dịch như tiếng Anh, tiếng Trung Quốc, tiếng Pháp,... Ngoài ra còn có những quốc gia khác cũng chuyển ngữ Truyện Kiều như : Ý, Hàn Quốc, Nhật Bản, Hungary,...
Không khó để bắt gặp một du khách Việt Nam đã từng đọc, thậm chí là thuộc từng đoạn, Truyện Kiều.
Các tác phẩm khác
Bên cạnh Truyện Kiều, những tác phẩm đặc sắc của đại thi hào Nguyễn Du còn rất nhiều. Chúng tôi xin giới thiệu đến quý độc giả 1 tác phẩm chữ Hán và 1 tác phẩm chữ Nôm của ông, cả 2 đều được giảng dạy trong chương trình Ngữ Văn phổ thông.
Độc Tiểu Thanh ký
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn;
Phong vận kì oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.
Tiểu Thanh là một cô gái xinh đẹp, giỏi giang nhưng phải phận vợ lẽ. Vợ cả ghen với nàng mà bắt cô gái tài hoa ấy phải sống một mình trong cảnh bị cô lập trên núi Cô Sơn. Nàng buồn bã, đau khổ mà không biết làm gì ngoài ký gửi lòng mình vào câu thơ. Ít lâu sau, Tiểu Thanh mắc tâm bệnh mà chết ở tuổi 18. Vợ cả chưa nguôi nỗi ghen tuông, cho đốt hết tập thơ nàng dày công viết. Cũng may còn sót lại nhiều bài do người đời góp nhặt, ghi chép, tạo thành tập thơ Phần dư.
300 năm sau câu chuyện éo le ấy, Nguyễn Du đọc được di cảo của nàng, thổn thức mà viết nên Thanh Hiên thi tập. Xót xa cho Tiểu Thanh đã hoá thành nỗi xót xa cho những người tài hoa, trong đó có ông.
Văn tế thập loại chúng sinh
Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương khô
Não người thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng…
Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Dịp đường lê lác đác mưa sa
Lòng nào lòng chẳng thiết tha
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.
Trong trường dạ tối tăm trời đất,
Có khôn thiêng phảng phất u minh…
Thương thay thập loại chúng sinh
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người
Hương lửa đã không nơi nương tựa
Hồn mồ côi lần lữa bấy niên…
Còn chi ai khá ai hèn
Còn chi mà nói ai hèn ai ngu!
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tĩnh đàn sái hạt dương chi
Muôn nhờ đức Phật từ bi
Giải oan cứu khổ độ về Tây phương.
Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh
Chí những lăm cất gámh non sông
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau!
Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở
Khôn đem mình làm đứa thất phu
Giàu sang càng nặng oán thù
Máu tươi lai láng xương khô rụng rời
Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
Quỷ không đầu đứng khóc đêm mưa
Cho hay thành bại là cơ
Mà Cô Hồn biết bao giờ cho tan.
Cũng có kẻ màn lan trướng huệ
Những cậy mình cung quế Hằng Nga,
Một phen thay đổi sơn hà,
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?
Trên lầu cao dưới dòng nườc chảy
Phận đã đành trâm gãy bình rơi
Khi sao đông đúc vui cười
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.
Đau đớn nhẽ không hương không khói
Hồn ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.
Thương thay chân yếu tay mềm
Càng năm càng héo một đêm một dài.
Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son thác sống ở tay
Kinh luân găm một túi đầy
Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.
Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm,
Trăm loài ma mồ nấm chung quanh
Ngàn vàng khôn đổi được mình
Lầu ca viện hát tan tành còn đâu?
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
Biết lấy ai bát nước nén nhang?
Cô Hồn thất thểu dọc ngang
Nặng oan khôn lẽ tìm đường hóa sinh?
Kìa những kẻ bài binh bố trận
Đổi mình vào cướp ấn Nguyên Nhung
Gió mưa sấm sét đùng đùng
Phơi thây trăm họ nên công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc
Bãi sa trường thịt nát máu rơi
Mênh mông góc bể chân trời
Nắm xương vô chủ biết rơi chốn nào?
Trời thăm thẳm mưa gào gió thét
Khí âm huyền mờ mịt trước sau
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu
Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?
Cũng có kẻ tính đường trí phú
Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn
Ruột rà không kẻ chí thân
Dẫu làm nên để dành phần cho ai?
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ
Của phù vân dẫu có như không
Sống thời tiền chảy bạc ròng
Thác không đem được một đồng nào đi.
Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm
Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm
Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêm
Nén hương giọt nước biết tìm vào đâu?
Cũng có kẻ rắp cầu chữ qúy
Dẫn mình vào thành thị lân la
Mấy thu lìa cửa lìa nhà
Văn chương đã chắc đâu mà trí thân.
Dọc hàng quán gặp tuần mưa nắng
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng
Anh em thiên hạ láng giềng người dưng
Bóng phần tử xa chừng hương khúc
Bãi tha ma kẻ dọc người ngang
Cô Hồn nhờ gửi tha phương
Gió trăng hiu hắt lửa huơng lạnh lùng.
Cũng có kẻ vào sông ra bể,
Cánh buồm mây chạy xế gió đông
Gặp cơn giông tố giữa dòng
Đem thân chôn rấp vào lòng kình nghê.
Cũng có kẻ đi về buôn bán
Đòn gánh tre chín dạn hai vai
Gặp cơn mưa nắng giữa trời
Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?
Cũng có kẻ mắc vào khóa lính
Bỏ cửa nhà gồng gánh việc quan
Nước khe cơm vắt gian nan
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời
Buổi chiến trận mạng người như rác
Phận đã đành đạn lạc tên rơi
Lập lòe ngọn lửa ma trơi
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương!
Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp
Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa
Ngẩn ngơ khi trở về già
Ai chồng con tá biết là cậy ai?
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa
Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?
Cũng có kẻ nằm cầu gối đất
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi
Thương thay cũng một kiếp người
Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan.
Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi mình vào chiếu rách một manh
Nắm xương chôn rấp góc thành
Kiếp nào cỡi được oan tình ấy đi?
Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha
Lấy ai bồng bế xót xa
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.
Kìa những kẻ chìm sông lạc suối
Cũng có người sẩy cối sa cây
Có người leo giếng đứt dây
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Người thì mắc sơn tinh thủy quái
Người thì sa nanh sói ngà voi
Có người hay đẻ không nuôi
Có người sa sẩy có người khốn thương.
Gặp phải lúc đi đường lỡ bước
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ?
Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi
Hoặc là nương ngọn suối chân mây
Hoặc là điếm cỏ bóng cây
Hoặc là quán nọ cầu này bơ vơ
Hoặc là nương Thần từ, Phật tự
Hoặc là nhờ đầu chợ cuối sông
Hoặc là trong quãng đồng không
Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre
Sống đã chịu một bề thảm thiết
Ruột héo khô dạ rét căm căm
Dãi dầu trong mấy mươi năm
Thở than dưới đất ăn nằm trên sương
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn
Tắt mặt trời lẩn thẩn tìm ra
Lôi thôi bồng trẻ dắt già
Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe Kinh.
Nhờ phép Phật siêu sinh Tịnh Độ
Phóng hào quang cứu khổ độ u
Rắp hòa tứ hải quần chu
Não phiền trút sạch oán thù rửa không.
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại
Chuyển pháp luân tam giới thập phương
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao
Mười loài là những loài nào?
Gái trai già trẻ đều vào nghe Kinh.
Kiếp phù sinh như hình như ảnh
Có chữ rằng: ”Vạn cảnh giai không”
Ai ơi lấy Phật làm lòng
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Đàn chẩn tế vâng lời Phật Giáo
Của có khi bát cháo nén nhang
Gọi là manh áo thoi vàng
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.
Ai đến đây dưới trên ngồi lại
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêụ
Phép thiêng biến ít thành nhiều
Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sanh.
Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không không.
Nam-mô chư Phật, Pháp, Tăng
Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài.
Văn chiêu hồn là một bài thơ Nôm lục bát, hiện vẫn chưa có lời khẳng định về thời điểm sáng tác. 184 câu thơ là nỗi thương cảm của tác giả sau cái chết của nhân loại, sự đồng cảm sâu sắc với những mảnh đời nghèo khó. Có lẽ cũng bởi chính ông cũng sống trong cảnh nghèo khó ấy, tuổi chưa ngoài 30 mà tóc đã bạc trắng. Văn chiêu hồn không chỉ có giá trị nghệ thuật, mà giá trị về tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo tác phẩm mang lại là rất lớn.
Tưởng nhớ danh nhân
Là một vị đại thi hào dân tộc với những tác phẩm sống mãi với thời gian, tên ông được đặt cho nhiều địa điểm công cộng như đường phố, phường xã hay trường học.
Ngoài ra, nếu ghé thăm vùng đất Hà Tĩnh, bạn sẽ thấy Nhà lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du toạ lạc tại thị trấn Tiên Điền, huyện Nghi Xuân. Nơi đây là di tích cấp Quốc gia đặc biệt. Ông Hồ Bách Khoa - Trưởng ban quản lý khu di tích cho biết: “Mỗi năm, khu di tích thu hút khoảng 20.000 - 30.000 lượt khách tham quan, nghiên cứu và học tập. Trong quần thể khu di tích hiện có 2 phòng lưu trữ nhiều kỷ vật của Nguyễn Du và các cổ vật khác có niên đại lên đến hàng trăm năm.”.
Để kỷ niệm 200 năm ngày mất Nguyễn Du, tại đây đã tổ chức hoạt động trưng bày bút tích và lễ thắp nhang tưởng nhớ.
Nhà thơ chính trị Tố Hữu cũng đã dùng ngòi bút của mình tri ân Nguyễn Du trong tác phẩm "Kính gửi cụ Nguyễn Du".
Với đóng góp to lớn vào nền văn minh nhân loại, UNESCO đã tôn vinh ông là "Danh nhân văn hóa thế giới"
>> Có thể bạn muốn biết về tác giả Nguyễn Trãi.
Vậy là câu hỏi "Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như" (tạm dịch: Người đời ai khóc Tố Như chăng) của vị Đại thi hào Nguyễn Du đã có câu trả lời. Chúng tôi tin rằng, không chỉ 300 năm, mà mãi đến muôn đời sau, tên tuổi Nguyễn Du vẫn sẽ còn vang vọng.