Liên Xô và Nga là hai cái tên khiến nhiều người nhầm lẫn. Quốc gia này có diện tích trải dài trên hai lục địa châu Á và châu Âu. Tuy nhiên, Liên bang Xô Viết có tên chính thức là Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết, hiện tại đã không còn tồn tại. Liên Xô đã tách ra thành Liên bang Nga và một số quốc gia nhỏ khác. Hãy cùng tìm hiểu thông tin chi tiết qua bài viết sau.
Liên Xô là gì? Có phải là Nga không?
Liên Xô hay còn gọi là Liên bang Xô viết, có tên chính thức là Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết. Liên bang Xô Viết ban đầu được thành lập bởi sự liên kết của Nga, Ukraine, Belarus và Cộng hòa Transcaucasian,... tồn tại từ năm 1922 đến năm 1991.
Liên Xô |
Vậy Liên Xô có phải là nước Nga hiện tại hay không?
Đế quốc Nga là một trong những quốc gia được hình thành sau khi Liên Xô bị sụp đổ. Tuy nhiên, nước Nga vẫn đảm nhận các nhiệm vụ của Liên bang Xô Viết cũ. Nga giữ lại phần lớn lãnh thổ từ Xô Viết, bao gồm cả Siberia. Vì sở hữu lượng tài nguyên thiên nhiên lớn, đặc biệt là dầu mỏ và khí đốt nên Nga có nền kinh tế lớn thứ 10 trên thế giới.
Sự khác biệt giữa Nga và Liên Xô là gì?
Phân biệt Liên Xô và Nga |
Nước Nga ngày nay không phải là Xô Viết. Hiểu một cách đơn giản nhất, Xô Viết là tiền thân của Liên bang Nga ngày nay. Cả hai đều có sự khác biệt chính là thời đại tồn tại. Xô Viết tồn tại từ năm 1917 - 1991, Nga là đất nước được hình thành sau thời điểm đó. Về mặt chính trị, Liên bang Xô Viết là một nước Cộng sản trong khi đó Nga là một nước Liên bang Cộng hòa bán tổng thống.
Tóm tắt lịch sử Liên Xô
Lịch sử của Liên bang Xô Viết đã phản ánh một giai đoạn thay đổi cho cả Nga lẫn thế giới với nhiều cột mốc quan trọng.
Thời kỳ Lenin
Vào tháng 12 năm 1922, Liên bang Cộng hòa Liên Xô được thành lập với sự hợp nhất của Liên bang Nga, Ukraine, Belarus và Liên bang Ngoại Kavkaz. Trước đó, chế độ phong kiến sa hoàng đã hoàn toàn bị lật đổ sau cuộc cách mạng tháng 10 Nga năm 1917.
Thời kỳ Stalin
Năm 1924, Lenin qua đời, Joseph Stalin - Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô lên nắm quyền. Stalin đã thực hiện các biện pháp cứng rắn và các cuộc thanh lọc nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước và quân đội nhằm củng cố chính quyền và đối phó với những nguy cơ từ nước ngoài. Hơn thế nữa ông còn thực hiện chính sách tập thể hóa nông nghiệp, hàng triệu người dân đã bị gửi đến các trại lao động.
Chiến tranh thế giới thứ hai
Năm 1939, Liên Xô tấn công Phần Lan do việc tranh chấp lãnh thổ ở vùng biên giới. Liên bang Xô Viết buộc Phần Lan phải nhường lại một phần lãnh thổ. Sau khi Đức xâm chiếm Liên Xô năm 1941 thì Phần Lan gia nhập vào phe Trục.
Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, theo như phạm vi ảnh hưởng của bản hiệp ước, Liên Xô đã đưa quân đến Ba Lan với mục đích chiếm lại lãnh thổ mà Ba Lan đã xâm chiếm từ Nga năm 1921.
Vào mùa đông năm 1939, Liên Xô đã tấn công Phần Lan do tranh chấp lãnh thổ ở vùng biên giới, buộc Phần Lan phải nhượng lại một phần lãnh thổ của mình, được gọi là Chiến tranh Sufen. Khi phát xít Đức xâm chiếm Liên Xô vào năm 1941, Phần Lan gia nhập Phe Trục. Lần lượt ba nước vùng baltic là Estonia, Latvia và Litva đã được sáp nhập vào Liên Xô qua các cuộc bỏ phiếu. Hàng trăm ngàn người dân bị trục xuất đến các khu vực xa xôi ở Siberia.
Ngày 22 tháng 6 năm 1941, phát xít Đức đã phát động một cuộc tấn công đánh úp vào Liên Xô. Vì không có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, liên bang Xô Viết đã chịu nhiều tổn thất nặng nề.
>> Xem bài viết chi tiết chiến tranh thế giới thứ hai.
Chiến tranh lạnh
Đến năm 1949, 12 quốc gia do Hoa Kỳ đứng đầu đã thực hiện ký kết Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương tại Washington D.C, Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) được thành lập. Năm 1955 Liên Xô đã ký Công ước Warszawa với các nước đồng minh xã hội chủ nghĩa, thành lập Khối Warszawa và đối đầu với khối NATO, bắt đầu Chiến tranh lạnh.
>> Xem bài viết chi tiết Chiến tranh lạnh.
Thời kỳ Khrushchev
Sau khi Stalin qua đời năm 1953, các lãnh đạo đứng đầu của Đảng Cộng sản đã có một vài cuộc đấu tranh chính trị, Khrushchev Doukou Malenkov đã chiến thắng và trở thành lãnh đạo. Sau khi nắm quyền tại Liên Xô, ông đã kết thúc các vụ bắt giữ, thả tù nhân chính trị và khôi phục danh dự cho hàng trăm nghìn người.
Thời kỳ Brezhnev
Lãnh đạo không được bao lâu, năm 1964, Khrushchev từ chức, Brezhnev giành được quyền lực chính trị. Brezhnev đã trở thành thư ký đầu tiên của Bộ Chính trị Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (sau này là Tổng Bí Thư) và Liên Xô bước vào thời kỳ Brezhnev.
Thời kỳ Gorbachev
Đến năm 1985, nhà cải cách Gorbachev thực hiện tiếp quản quyền lực chính trị và nhậm chức tổng thư ký của Bộ Chính trị Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Ông đã thực hiện thay đổi nhiều ý tưởng trước đó. Gorbachev đã thực hiện cải cách các chính sách về chính trị, kinh tế và chính sách mở trong nước, “thanh lý” các sai lầm trong lịch sử. Gorbachev đã chủ trương xây dựng một “chủ nghĩa xã hội dân chủ, nhân đạo”.
Tan rã
Ngày 24/8/1991, Ukraine đã tách khỏi Liên Xô và tuyên bố độc lập. Cuối năm 1991, Cộng đồng các quốc gia độc lập được thành lập để thay thế cho Liên Xô với khuôn khổ tương tự như liên bang. Vào ngày 25 tháng 12 năm 1991, Gorbachev tuyên bố từ chức và trao lại quyền lực quốc gia cho Yeltsin. Liên Xô chính thức tan rã
Vì sao Liên Xô tan rã?
Sự tha hóa và biến chất của Đảng Cộng sản đã trở thành nguyên nhân chính khiến Liên bang Xô Viết tan rã, một trong số đó phải kể đến như:
Chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các nước phương Tây
Các nước Phương Tây đã áp dụng chiến lược tại Liên Xô như:
Không sử dụng vũ trang để lật đổ chế độ chính trị mà sử dụng chiến tranh tâm lý, chiến tranh gián điệp để chống phá từ bên trong. Ngoài ra còn bóp nghẹt về mặt kinh tế để Liên Xô ngày càng suy yếu.
Hơn thế nữa, các nước phương Tây đã rất thành công trong việc làm suy thoái lực lượng lãnh đạo của Liên bang Xô Viết, tạo ra mâu thuẫn giữa nhân dân với Đảng, bao vây kinh tế, cô lập chính trị. Ngoài ra còn kích động, lôi kéo các phần tử chống phá chủ nghĩa xã hội.
Sai phạm các nguyên tắc tập trung dân chủ
Trong các hoạt động sinh hoạt Đảng, Chính quyền Xô Viết đã vi phạm các nguyên tắc tập trung dân chủ, độc đoán, chuyên quyền và không chấp nhận những ý kiến trái chiều. Bên cạnh đó, chính quyền cũng có nhiều biểu hiện coi thường tập thể, luôn cho rằng ý kiến, quyết định của mình là đúng. Kết quả của điều này đó là những buổi sinh hoạt Đảng diễn ra nhàm chán, mất đoàn kết, không còn tinh thần chiến đấu. Các Đảng viên trung kiên, tài giỏi không được trọng dụng, ngược lại những kẻ nịnh bợ lại được thăng tiến cao.
Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng quan liêu, Có nhiều hành vi xa rời thực tiễn
Bộ Chính trị và Bộ chỉ huy Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đã có nhiều hành vi quan liêu xa rời thực tiễn, làm mất đi mối quan hệ tốt đẹp với nhân dân. Lãnh đạo không có hiểu biết đúng đắn về tình hình xã hội, phớt lờ nguyện vọng của quần chúng nhân dân, không quan tâm đến đời sống nhân dân, gây ra mâu thuẫn giai cấp trầm trọng.
Giai cấp lãnh đạo suy thoái
Những lãnh đạo giữ vai trò quan trọng trong bộ máy chính quyền đã có nhiều biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống. Lãnh đạo sống ích kỷ, luôn quan tâm đến lợi ích cá nhân và gia đình lên trên hết. Tại các cục bộ địa phương lại xuất hiện tình trạng chia bè kéo cánh, tham ô, sống xa hoa, cướp bóc của nhân dân để làm giàu cho chính mình.
Đôi nét về chính phủ Liên Xô
Trong thời kỳ Lenin, chính phủ Liên Xô là cơ quan hành pháp chính tại Liên Xô với người đứng đầu là Thủ tướng, dưới Thủ tướng là các Phó Thủ tướng chịu trách nhiệm về một vai trò cụ thể được giao. Các Bộ trưởng và chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước sẽ do Thủ tướng đệ trình Xô Viết tối cao bổ nhiệm.
Bản đồ Liên Xô |
Hành pháp của Chính phủ Liên Xô chủ yếu là phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trong ngắn hạn và dài hạn. Trụ sở Chính phủ Liên Xô Được đặt tại Tòa nhà Thượng viện Kremlin, Moskva.
Năm 1924, sau khi Lênin mất, CNXH Xô viết đã được xây dựng lại theo phương thức:
Thúc đẩy công nghiệp hóa với tốc độ nhanh chóng, ưu tiên vào các ngành công nghiệp nặng.
Cải tạo xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ các hình thức sở hữu cá nhân, thiết lập chế độ công hữu dưới hai hình thức là toàn dân và tập thể.
Tiến hành xóa bỏ thị trường tự do, thiết lập lại trật tự quản lý, điều hành nền kinh tế tập trung theo kế hoạch Nhà nước, trao đổi sản phẩm dưới hình thức giao nộp từ dưới lên và cấp phát từ trên xuống, các đơn vị sản xuất không được tự do trao đổi.
Đảng Cộng sản cầm quyền ở đỉnh cao quyền lực, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội chỉ là lực lượng hỗ trợ của Đảng, thừa hành những quyết định của Đảng.
Ảnh hưởng đối với Việt Nam
Đối với Việt Nam, thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga đã tạo ra khởi đầu cho quá trình ủng hộ, giúp đỡ to lớn và toàn diện của Đảng, Nhà nước và nhân dân Liên Xô. Trong suốt hành trình đi tìm con đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường cứu nước duy nhất cho dân tộc mình từ chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trong quá trình thành lập và phát triển, Liên Xô đã công nhận Việt Nam đồng thời trợ giúp vũ khí, trang bị quân sự chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược trong giai đoạn 1950 - 1954 và trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước năm 1954 - 1975.
Hơn thế nữa, Liên Xô còn đề xuất Việt Nam tham gia vào Hội đồng Kinh tế Châu Á - Viễn Đông, đề nghị kết nạp Việt Nam vào Liên Hợp Quốc, đề nghị cho Việt Nam tham dự Hội nghị Giơnevơ…
Liên Xô còn đồng ý đào tạo cán bộ quân sự cho các vị trí chuyên môn mà Việt Nam cần. Tính đến tháng 4/1964, đã có hơn 1450 cán bộ được gửi đến 31 trường, học viện quân sự của Liên Xô. Có thể nói Liên Xô đã giúp đào tạo, bồi dưỡng số lượng lớn cán bộ nòng cốt của cách mạng Việt Nam.
Mối quan hệ tốt đẹp và sự giúp đỡ của Xô Viết đã được tạo ra từ sau Cách mạng tháng Tám cho đến khi Liên Xô sụp đổ. Ngay cả vào cuối những năm 80, khi tình hình kinh tế của Liên Xô bắt đầu sa sút nghiêm trọng nhưng Việt Nam vẫn nhận được sự hỗ trợ đắc lực của Liên Xô về kinh tế, khoa học và kỹ thuật.
Có thể thấy tuy thành lập và phát triển trong thời gian ngắn nhưng Liên Xô đã có nhiều ảnh hưởng đối với Việt Nam nói riêng và các nước xã hội chủ nghĩa nói chung.